Làm thế nào để rửa 100 triệu đô-la?

Làm giàu, Làm quan

moneymazeCó lẽ ta tìm được câu trả lời từ một bản phúc trình mới đây do Tổng cục Kế toán Mỹ (GAO), một cơ quan điều tra của Quốc hội Mỹ, đưa ra hồi đầu tháng 12/1998. Theo đó, hệ thống dịch vụ quản lý tài sản tư nhân của ngân hàng Citibank (có trụ sở chính ở New York City, Mỹ, và là một trong 5 ngân hàng tư nhân lớn nhất thế giới) đã tạo ra một con đường lắt léo, ngoằn ngoèo, và u u minh minh đến nỗi bất cứ ai truy lùng dấu vết tài sản của các thân chủ của ngân hàng cũng đành bó tay chịu. Sau tám tháng điều tra, GAO đã kết luận rằng Citibank đã giúp Raúl Salinas de Gortari xây dựng “một hệ thống quản lý tiền che dấu nguồn gốc, nơi đến, và người thụ hưởng của những nguồn quỹ có liên quan”, tức là giúp hắn chuyển tài sản của mình từ những tài khoản ở Mexico đến những công ty trá hình không thể truy tông tích ở Quần đảo Cayman.

Salinas, em trai của cựu tổng thống Mexico đã bị phế truất Carlos Salinas,đã bị tống giam tại Mexico từ năm 1995 về các tội danh mưu sát và làm giàu bất chính. Hắn đã phủ nhận tất cả mọi tội danh, và vụ án này vẫn chưa kết thúc ở Mexico City. Hồi tháng 10/1998, chính phủ Thụy Sĩ đã tịch biên tài sản của hắn trị giá 114 triệu đô-la, cáo buộc hắn tội kiếm tiền bằng cách bảo kê cho những cartel ma túy. Nhưng Thụy Sĩ đã nhường quyền truy tố Salinas cho Mexico.

Bằng một giọng văn thẳng thắn và không rườm rà thật khác thường, bản phúc trình của GAO nặng lời chỉ trích Citibank không những về việc ngân hàng này không tìm hiểu nguồn gốc tài sản của Salinas, mà còn về việc Amy Elliot, một chuyên viên về quản lý tài sản tư nhân của ngân hàng này, đã “vẽ đường cho hươu chạy”, giúp hắn tạo ra một hệ thống rối rắm gồm những công ty ma và những lần chuyển tiền bằng điện tín khắp thế giới có thể che dấu danh tánh của hắn với tư cách là chủ nhân của những tài khoản đó. Cũng theo bản phúc trình, những hành động của Citibank trong vụ Salinas “không nhất quán” với những chính sách mà ngân hàng này đã nêu rõ về việc tìm hiểu các thân chủ và nguồn gốc tiền bạc của họ. Richard J. Howe, người phát ngôn của Citibank, đã từ chối những câu hỏi cụ thể về bản phúc trình, nhưng nhận định rằng bản phúc trình này có một số sai sót về dữ kiện và cách lý giải, và đã không đề cập đến những nỗ lực của Citibank trong việc đấu tranh chống rửa tiền. Citibank cũng từ chối không cho Elliot bình luận, nhưng đã khẳng định rằng bà ta cũng như ngân hàng này chưa hề phạm luật nào cả.

Xét về một số phương diện, tài khoản của Salinas tại Citibank giống hệt như một trường hợp thông thường trong dịch vụ quản lý tài sản tư nhân, tức là một chuyên viên giúp thân chủ mua bất động sản và quản lý những khoản đầu tư của mình. Nhưng cách thức mà những khoản tiền của Salinas được chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác sẽ khiến cho bất cứ một thân chủ bình thường nào cũng phải lắc đầu lè lưỡi không hiểu nổi, mặc dù theo Citibank, những hoạt động đó rất bình thường đối với những thân chủ sử dụng dịch vụ này.

Theo bản phúc trình, quy trình rửa tiền gồm bốn bước.

Bước 1: vợ của Salinas tự tay mang những tấm séc từ ít nhất 5 ngân hàng Mexico đến chi nhánh Citibank ở Mexico City, và theo sắp đặt trước, Salinas chẳng hề có tài khoản tại đó, và chẳng có gì liên kết cái tên này với những khoản tiền đó.

Bước 2: Citibank Mexico City chuyển tiền bằng điện tín đến New York City, tại đó những khoản tiền đó được đưa vào một tài khoản “tập trung” vô danh, và cũng chẳng có giấy tờ nào cho thấy mối quan hệ giữa Salinas và số tiền đó. Tiếp đến là một lớp vỏ bọc dày hơn cho danh tánh của Salinas.

Bước 3: Với sự giúp đỡ của Amy Elliot, Salinas lập một công ty trá hình tên là Trocca tại Quần đảo Cayman. “Hội đồng quản trị” của Trocca gồm ba công ty trá hình khác, còn chủ tịch và là cổ đông lớn nhất lại là một công ty trá hình khác; tất cả đều được che chở bởi những luật lệ rất khắt khe của Quần đảo Cayman về việc bảo mật tài chính.

Bước 4: Trocca có mở những tài khoản đầu tư tại Citibank ở Zurich và Luân Đôn. Những tài khoản này bao gồm cổ phiếu và trái phiếu, được quản lý bởi Cofidas, một chi nhánh của Citibank tại Zurich.

Chính qua hệ thống này mà Amy Elliot di chuyển khoảng 100 triệu đô-la cho một người chẳng rõ danh tánh. Theo bản phúc trình của GAO, Citibank khẳng định rằng tài sản của Salinas một phần xuất phát từ việc bán một công ty xây dựng, mặc dù ngân hàng này “không biết chi tiết gì về công ty xây dựng ấy, trong đó có tên công ty, ai mua, hay doanh số bán là bao nhiêu”.

Gần đây, do tình hình hoạt động dịch vụ ngân hàng thương mại (tức là cho các doanh nghiệp vay để đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh) có vẻ “ế ẩm” vì rủi ro cao và lợi nhuận thấp, chiến lược tăng trưởng của các tập đoàn tài chính chuyển hướng tập trung vào dịch vụ quản lý tài sản tư nhân. Tại Citigroup, tập đoàn chủ quản Citibank, và những định chế tài chính tương tự trên khắp thế giới, những người có các danh mục đầu tư với 6 hoặc 7 chữ số có thể tìm thấy không chỉ những dịch vụ ngân hàng thông thường như tài khoản séc hay tài khoản tiết kiệm mà còn những dịch vụ cố vấn tài chính chiến lược; được giới thiệu những phương cách đầu tư sinh lãi cao chẳng hạn các quỹ đầu cơ chứng khoán; được cố vấn về thuế và giúp hạch toán tài sản; được giúp hoạch định bất động sản và tất cả các loại hình bảo hiểm. Họ cũng có thể được hỗ trợ trong việc bảo vệ tài sản của mình tránh khỏi “ánh mắt dòm ngó” của những người như chủ nợ hay vợ/chồng cũ; các tài sản đó sẽ được bí mật chuyển từ nước này sang nước khác. Thông thường, thân chủ của những dịch vụ này phải có sơ sơ … 1 triệu đô-la.

Mảng hoạt động này vô tình trở thành “cứu tinh” của những kẻ rửa tiền. Chúng có thể lợi dụng để chuyển tài sản đến những quốc gia như Thụy Sĩ và Quần đảo Cayman, những nơi được xem là “thiên đường ẩn náu” vì có những luật bảo mật cho phép che dấu danh tánh của người gởi tiền. Hoạt động quản lý tài sản tư nhân phát triển quá nhanh, khiến cho một số cơ quan chính phủ xem đó như một cơn ác mộng của nhà chức trách. Với những tài sản tản mác ở khoảng 100 nước, Citibank có quy mô quá lớn và đa quốc gia đến nỗi chỉ một cơ quan hay một chính phủ duy nhất thì không thể kham nổi công việc giám sát.

Thượng nghị sĩ Carl Levin, Michigan, kêu gọi mở những cuộc điều trần về những kết quả phát hiện của GAO. Ông đặt câu hỏi: “Có phải các ngân hàng lớn của Mỹ, vô tình hoặc cố ý, đang giúp những tên tội phạm chuyển tài sản đến những nơi cất giấu an toàn trên khắp thế giới? Nếu có, thì Quốc hội cần phải loại bỏ những lỗ hổng luật pháp khiến cho điều đó xảy ra”. Vào trung tuần tháng 12/1998, những nhà lập pháp liên bang đã ban hành những quy định mới yêu cầu các ngân hàng phải xác nhận danh tánh của khách hàng và nguồn gốc của những khoản chuyển tiền lớn.

Hầu hết các nhà phân tích cho rằng khó có khả năng Citibank sẽ bị truy tố. Để cáo buộc một vụ rửa tiền, thông thường các công tố viên phải chứng minh cả hai điều: thân chủ là một tội phạm, và ngân hàng biết điều đó khi cung cấp dịch vụ. Xưa nay thật khó mà buộc các ngân hàng chịu trách nhiệm về những điều mà họ không hỏi. Một lý do khác cũng rất thuyết phục khiến cho khó buộc tội Citibank: chẳng ai muốn một định chế tài chính lớn của Mỹ bị rút giấy phép hoạt động (một trong những hình phạt có thể áp dụng cho tội rửa tiền).

Phạm Vũ Lửa Hạ

Bài đã đăng trên Kiến Thức Ngày Nay, số ra ngày 10/1/1999, và in lại trong tập sách “Một góc nhìn – Kinh tế toàn cầu“, trang 198-202, NXB Trẻ, 2005.

URL: http://phamvuluaha.wordpress.com/2012/07/25/moneylaundering/

Bài liên quan:

One thought on “Làm thế nào để rửa 100 triệu đô-la?

Trả lời

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.